“Tình yêu trong thơ Lưu Trọng Lư thường thổn thức trong ly tán đợi chờ, có khi là vô vọng. Sầu muộn là chủ đạo. Giang hồ là lối thoát, kể cả giang hồ trong cõi mộng. Thơ Lưu Trọng Lư có nhiều sáng tạo về nhạc điệu, bằng nhạc điệu ông diễn tả đắc địa được nội dung, nhất là những nội dung nhiều mộng ảo. Bài thơ Tiếng thu là một thành công không lặp lại trong thơ Việt. Thơ ít lời, cảnh ít nét nhưng điệu của âm, điệu của vần thật tinh vi, tạo nên những khoảng mờ, khoảng đậm, những màu âm rất gợi cảm xúc.” - VŨ QUẦN PHƯƠNG
“Lưu Trọng Lư là một thi sĩ đa tình và mơ mộng. Ông say sưa tất cả những cái đẹp của người và của tạo vật, tấm lòng ông lúc nào cũng thổn thức, trí não ông lúc nào cũng mơ màng, ông đem xáo trộn thực với mộng, mộng với thực, thổ lộ nên những lời thơ huyền ảo vô cùng.” - VŨ NGỌC PHAN
Thông tin tác giả
Lưu Trọng Lư sinh ngày 19 tháng 6 năm 1912. Quê ở xã Bắc Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông là một trong những chủ tướng của phong trào Thơ mới trước 1945. Từ cách mạng tháng Tám năm 1945 trở đi, ông liên tục hoạt động văn hóa văn nghệ ở chiến khu và Hà Nội. Từng là Tổng thư ký Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 2. Ông mất ngày 10 tháng 8 năm 1991.
Ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật, đợt 2, năm 2000.
Tác phẩm chính của Lưu Trọng Lư:
- Người sơn nhân (truyện, thơ, 1933)
- Tiếng thu (thơ, 1939)
- Chiếc cáng xanh (truyện, 1941)
- Khói lam chiều (truyện, 1941)
- Tỏa sáng đôi bờ (thơ, 1959)
- Người con gái sông Gianh (thơ, 1966)
- Từ đất này (thơ, 1971)
- Mùa thu lớn (tùy bút, hồi ký, 1978)
- Nữ diễn viên miền Nam (kịch bản cải lương)
- Cây thanh trà (kịch bản cải lương)
- Xuân Vỹ Dạ (kịch nói)
- Anh Trỗi (kịch nói)
- Nửa đêm sực tỉnh (hồi ký, 1989)...