THÊM MỘT TÁC PHẨM KINH ĐIỂN CỦA ĐẠI VĂN HÀO KAWABATA YASUNARI SẼ ĐẾN TAY BẠN ĐỌC!!!
Câu chuyện của "Rập rờn cánh hạc" xoay quanh mối quan hệ của chàng trai trẻ Kikuji với bốn người phụ nữ, bốn con người chiếm những vị trí và vai trò hết sức quan trọng đối với cuộc đời anh, là trà sư Chikako, cô học trò Yukiko, phu nhân Ota và cô con gái Fumiko. Năm con người gặp gỡ, gắn kết với nhau, để rồi chia xa bên những chiếc bàn trà. Những dụng cụ pha trà, tưởng như vô tri vô giác, nhưng hóa ra lại ngầm thể hiện những chi tiết về cuộc đời của người sử dụng nó.
Rập rờn cánh hạc là một trong nhiều sáng tác quan trọng của Kawabata Yasunari, góp phần giúp ông giành giải Nobel Văn chương vào năm 1968.
Trích dẫn sách Rập Rờn Cánh Hạc
“Lạ lùng thay, con đường lớn này lại vắng bóng người qua lại, im làm vắng vẻ suốt tới tận những dãy hào lũy bao quanh hoàng cung ở phía cuối đường. Các toa tàu điện chói chang dưới ánh trời chiều cũng thực là lặng lẽ im lìm.
Ngồi trên toa xe điện chật ních những người mà nhìn xuống, chàng cảm thấy như con đường lớn đang bập bềnh trong khoảng thời gian kỳ diệu của hoàng hôn, trông giống hệt một đại lộ nào đó ở ngoại quốc vậy.
Chàng tưởng như thấy được cô gái nhà Inamura với cái khăn nhiễu màu hồng đào in hình những cánh hạc trắng rập rờn, đang cất bước dưới bóng mát hai hàng cây. Chàng tưởng như nhìn thấy rõ mồn một cả cái khăn gói lẫn những cánh hạc.
Kikuji thấy lòng mình cũng tươi mát lại.”
Thông tin tác giả
Sinh ngày 14.6.1899, là tiểu thuyết gia người Nhật Bản đầu tiên và là người châu Á thứ ba đoạt giải Nobel Văn chương. Những sáng tác văn chương, những tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata Yasunari, qua thời gian vẫn luôn đem lại hấp lực mạnh mẽ đối với nhiều nhà phương Đông học trên khắp các châu lục, có sức lôi cuốn rộng rãi độc giả trên thế giới, phản ảnh nhiều phương diện của văn hóa cũng như những rung cảm đầy đam mê mà tinh tế của tâm hồn Nhật Bản.
Bên cạnh viết văn, Kawabata còn làm phóng viên cho một số tờ báo. Mặc dù đã từ chối tham gia vào sự hăng hái quân phiệt trong Thế chiến II, ông cũng thờ ơ với những cải cách chính trị của Nhật Bản sau chiến tranh, nhưng rõ ràng chiến tranh có ảnh hưởng lớn lao đối với ông (cùng với cái chết của cả gia đình khi ông còn trẻ). Sau đó, ông nói rằng kể từ đó ông chỉ còn khả năng viết những tác phẩm bi ca mà thôi.
Năm 1972, Kawabata tự tử bằng khí đốt. Nhiều giả thuyết đã được đưa ra: sức khoẻ kém, cuộc tình bị cấm đoán, sốc do vụ tự tử của người bạn văn năm 1970. Kawabata không để lại thư tuyệt mệnh, các tác phẩm của ông cũng không có manh mối gì, nên đến nay không ai biết được nguyên nhân thật sự của cái chết đó.
Trong diễn văn của Viện Hàn lâm Thụy Điển khi trao giải Nobel Văn chương cho ông vào năm 1968, đã tôn vinh Kawabata: “Ông là người tôn vinh cái đẹp hư ảo và hình ảnh u uẩn của hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và trong định mệnh con người.”
Tác phẩm tiêu biểu
- Lễ chiêu hồn (1921)
- Vũ nữ Izu (1926)
- Xứ tuyết (1947)
- Ngàn cánh hạc (1952),...