Điên trong cõi yêu và yêu trong cõi điên thì có gì khác với nàng Inako, nhân vật trung tâm nhưng không bao giời hiển hiện tự thân trong Bồ Công Anh, người mắc chứng nhân thể khuyết thị đã bao lần không nhìn thấy thân thể người yêu dù được anh ôm trong vòng tay.
[...]
Kawabata đã biến chứng nhân thể khuyết thị đó từ bệnh lí sang triết lí. Nói như người yêu của Inako thì: "Chứng nhân thể khuyết thị chẳng phải là căn bệnh mà không nhìn thấy phần nào đó của mình, không nhìn thấy phần nào đó của người mình yêu thương, không nhìn thấy phần nào đó của cuộc đời sao?"
"Ai mà như em ôi bồ công anh
tan trong chiều đông long lanh long lanh
gió giục rung mình em ánh sáng
em rơi từ thiên thanh
Khi tiếng chuông chùa ngân nga
thiên nữ nghiêng mình bay tán hoa
bàn tay sinh tử xui em múa
em tung mình trong phôi pha."
(Thơ Nhật Chiêu)
Hiện lên rõ nét nhất trong tác phẩm là bi cảm nhân sinh.
Câu chuyện miên man, buồn bã giữa người mẹ và chàng trai trước cái đẹp bị tổn thương, về một nhân vật không xuất hiện trực tiếp - một cô gái gần như vô hình vô tiếng trong tác phẩm nhưng người đọc cảm được sự tồn tại của cô qua tình yêu của người mẹ, của chàng trai, và qua tiếng chuông chùa cô gióng lên...
Trích lời giới thiệu của nhà nghiên cứu Nhật Chiêu.
BỒ CÔNG ANH được đánh giá ngang tầm với Hồ, Những người đẹp ngủ say… dù chỉ là một tác phẩm hãy còn dang dở.
Thông tin tác giả
Sinh ngày 14.6.1899, là tiểu thuyết gia người Nhật Bản đầu tiên và là người châu Á thứ ba đoạt giải Nobel Văn chương. Những sáng tác văn chương, những tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata Yasunari, qua thời gian vẫn luôn đem lại hấp lực mạnh mẽ đối với nhiều nhà phương Đông học trên khắp các châu lục, có sức lôi cuốn rộng rãi độc giả trên thế giới, phản ảnh nhiều phương diện của văn hóa cũng như những rung cảm đầy đam mê mà tinh tế của tâm hồn Nhật Bản.
Bên cạnh viết văn, Kawabata còn làm phóng viên cho một số tờ báo. Mặc dù đã từ chối tham gia vào sự hăng hái quân phiệt trong Thế chiến II, ông cũng thờ ơ với những cải cách chính trị của Nhật Bản sau chiến tranh, nhưng rõ ràng chiến tranh có ảnh hưởng lớn lao đối với ông (cùng với cái chết của cả gia đình khi ông còn trẻ). Sau đó, ông nói rằng kể từ đó ông chỉ còn khả năng viết những tác phẩm bi ca mà thôi.
Năm 1972, Kawabata tự tử bằng khí đốt. Nhiều giả thuyết đã được đưa ra: sức khoẻ kém, cuộc tình bị cấm đoán, sốc do vụ tự tử của người bạn văn năm 1970. Kawabata không để lại thư tuyệt mệnh, các tác phẩm của ông cũng không có manh mối gì, nên đến nay không ai biết được nguyên nhân thật sự của cái chết đó.
Trong diễn văn của Viện Hàn lâm Thụy Điển khi trao giải Nobel Văn chương cho ông vào năm 1968, đã tôn vinh Kawabata: “Ông là người tôn vinh cái đẹp hư ảo và hình ảnh u uẩn của hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và trong định mệnh con người.”
Tác phẩm tiêu biểu
- Lễ chiêu hồn (1921)
- Vũ nữ Izu (1926)
- Xứ tuyết (1947)
- Ngàn cánh hạc (1952),...